Bể cá cảnh cá dĩa mới Symphysodon tarzoo – Các loài cá đĩa (chi Symphysodon) phân bố rộng ở hầu hết những nhánh nhỏ dọc theo chiều dài của sông Amazon nên chúng được chọn làm đối tượng để nghiên cứu về lịch sử biến động địa chất của sông này vào năm 2006.
Một số lượng lớn mẫu vật được các nhà khoa học thu thập ở nhiều địa điểm khác nhau và đem đi phân tích gen (mitochondrial DNA). Kết quả cho thấy nhóm cá thể ở thượng nguồn khác biệt hoàn toàn với nhóm cá thể ở trung và hạ nguồn (Symphysodon discus, Symphysodon aequifasciatus) và là một loài hoàn toàn riêng biệt, loài Symphysodon tarzoo.
Sông Amazon vốn đổ ra Thái Bình Dương nhưng cách đây khoảng 67 triệu năm dòng sông chuyển hướng đổ lên phía bắc cùng với sự hình thành của dãy núi Andes và cuối cùng đổ ra Đại Tây Dương như chúng ta thấy ngày nay cách đây khoảng 7 triệu năm. Các biến động địa chất có thể đã cô lập quần thể cá đĩa phía tây một thời gian đủ lâu để chúng phát triển thành một loài riêng biệt. Ngày nay, dấu vết của điểm ngăn cách này có thể thấy qua eo Purus (khoảng giữa sông Manaus và Bauana) mà chỉ có một số ít cá thể Symphysodon tarzoo được phát hiện ở sông Madeira phía hạ nguồn và không có cá thể Symphysodon aequifasciatus nào được phát hiện ở phía thượng nguồn của eo Purus. Eo này được hình thành cách đây khoảng 3 triệu năm trong thời kỳ trồi lên cuối cùng của dãy núi Andes.
Địa bàn phân bố của của các loài cá đĩa trên sông Amazon. Loài Symphysodon tarzoo phân bố chủ yếu ở thượng nguồn eo Purus trong các sông từ Ica đến Bauana. Chúng còn được biết dưới tên thương mại là cá đĩa Tefé. Loài Symphysodon aequifasciatus phân bố ở hầu hết các sông phía hạ nguồn eo Purus. Loài Symphysodon discus phân bố ở vùng hạ lưu của các sông Abacaxis, Negro và Trombetas. Hai loài đầu cư ngụ chủ yếu trong các vùng nước trắng (whitewater) và nước trong (clearwater) trong khi loài sau trong vùng nước đen (blackwater) nhưng trên thực tế, các loài đều có khả năng chịu đựng được những loại nước khác nhau do sự biến đổi thường xuyên của môi trường sống tự nhiên.
Tarzoo không phải là một cái tên mới. Loài Symphysodon discus tarzoo từng được mô tả bởi Lyons vào năm 1959 dựa trên một số cá thể sống có xuất xứ từ trang trại xuất khẩu cá cảnh Tarpon Zoo ở Leticia, Columbia. Chúng được phân biệt với những loài hiện hữu qua những đốm đỏ đặc trưng ở thân và vây hậu môn. Sau đó (1960), Shultz bác bỏ tên này và xếp chúng vào loài Symphysodon aequifasciatus. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu sau này (Kullander, 1996; 2003) khẳng định rằng Symphysodon tarzoo là một loài riêng biệt kể cả việc thu thập một mẫu vật chuẩn ở nhánh sông Jutái, Brazil vào năm 1998. Như vậy, kết quả phân tích gen ở trên là lời khẳng định cuối cùng về sự tồn tại của loài cá đĩa này.
Cá đĩa là loài cá thuộc về quần thể cichlid ở Nam Mỹ. Chúng và một số chi cá họ hàng gần như cá ông tiên (Pterophyllum), cá kim thơm (Heros), Uaru và Mesonauta có thân dẹp và cao. Cấu trúc thân thể đặc biệt như vậy thích hợp cho đời sống ẩn náu ở ven bờ các vùng nước lũ. Cho mãi đến gần đây, chỉ có hai loài cá đĩa chính thức được công nhận là Symphysodon discus (Heckel, 1840) và Symphysodon aequifasciatus (Pellegrin, 1904). Loài Symphysodon aequifasciatus có 9 sọc đứng sậm màu và đều nhau nhưng ở loài Symphysodon discus các sọc 1, 5 và 9 thường lớn và đậm hơn những sọc còn lại. Nghiên cứu trên những dị biệt về màu sắc dẫn đến việc hình thành nhiều phân loài khác nhau như Symphysodon aequifasciatus aequifasciatus, Symphysodon aequifasciatus haraldi (Shultz, 1960), Symphysodon aequifasciatus axelrodi (Shultz, 1960), Symphysodon discus discus và Symphysodon discus willischwartzi (Burgess, 1981). Thật không may, việc nghiên cứu chỉ dựa trên một số mẫu vật không chắc chắn về nguồn gốc dẫn đến kết quả là chỉ có hai loài cá đĩa được nhận dạng mà thôi.
Kết quả phân tích gen gần đây không chỉ xác định thêm một loài cá đĩa mới mà còn đem lại một kết quả hết sức ngạc nhiên, đó là sự khác biệt di truyền giữa hai loài cá đĩa Symphysodon discus và Symphysodon aequifasciatus là rất nhỏ. Các nhà khoa học giả thiết rằng hai loài này có thể mới chỉ phân hóa gần đây thôi hoặc là chúng đã lai tạp với nhau một cách tự nhiên. Điều này chắc chắn làm triệt tiêu những ý kiến ủng hộ việc chia chi cá đĩa Symphysodon ra làm nhiều phân loài theo những tên đã được liệt kê ở trên. Thậm chí, hai loài Symphysodon discus và Symphysodon aequifasciatus bây giờ có thể được xem như là hai phân loài hoặc hai dạng hình thái của một loài duy nhất.
Trong khi sự kiện này có thể không gây nhiều chú ý với những người nuôi cá đĩa thông thường vì họ không quan tâm lắm đến vấn đề thuần chủng thì nó có thể tạo ra một chấn động trong những hiệp hội cichlid ở các nước Âu-Mỹ. Chúng ta nên biết là những nhà nuôi và nhân giống cá cảnh nghiêm túc có quan điểm gần giống với những nhà khoa học. Nuôi cá ngoài việc thỏa mãn thú vui còn giúp bảo tồn các giống loài tự nhiên mà chúng vốn đang chịu nhiều đe dọa tuyệt chủng vì nhiều lý do khác nhau. Sự lai tạp (hybrid) trong môi trường cá cảnh là điều nên tránh vì nó không giúp bảo tồn các loài thuần chủng.
Vì vậy, cá lai tạp như La Hán hay Hồng Két không được tham gia vào các cuộc triển lãm chẳng hạn như triển lãm thường niên của Hiệp Hội Cichlid Mỹ (ACA). Với cá đĩa, về mặt chính thức thì chỉ có hai loài cá đĩa là Symphysodon discus và Symphysodon aequifasciatus. Hầu hết các dòng cá đĩa thuần dưỡng đang lưu hành trên thị trường cá cảnh là hậu duệ của loài Symphysodon aequifasciatus hoang dã vì vậy cá đĩa thuần dưỡng vẫn được xem như là cá thuần chủng và được tham gia vào các cuộc triển lãm chính thức. Bây giờ thì chúng ta biết rằng nhóm cá đĩa ở thượng nguồn sông Amazon vốn được xem là loài Symphysodon aequifasciatus thì nay đã được xác định là một loài mới Symphysodon tarzoo và không có gì đảm bảo rằng hai loài này không hề lai tạp với nhau một cách không cố ý và phát tán đi khắp nơi trong suốt lịch sử phát triển của nghề nuôi cá đĩa. Như vậy, cá đĩa thuần dưỡng có còn được xem là một đối tượng dự thi trong các cuộc triển lãm cichlid truyền thống ở các quốc gia Âu-Mỹ nữa hay không?
Theo_agriviet.com